1. Tình hình xuất nhập khẩu chung
Khung roving là máy kéo sợi xử lý các dải sợi thành sợi thô. Chức năng chính của khung roving là kéo sợi thô thành một hình dạng nhất định để đáp ứng các yêu cầu xử lý của khung kéo sợi. Trong những năm gần đây, với sự phát triển của ngành công nghiệp khung roving và sự trưởng thành của công nghệ Trung Quốc, sự phụ thuộc vào nhập khẩu ngày càng ít đi. Từ năm 2020, số lượng khung roving nhập khẩu của Trung Quốc không vượt quá hai chữ số, nhưng số lượng và giá trị xuất khẩu đã tăng lên theo từng năm.

Từ năm 2018, cả số lượng và giá trị xuất khẩu khung gỗ lưu động từ Trung Quốc đều liên tục tăng, trong khi số lượng và giá trị nhập khẩu giảm nhanh chóng. Từ tháng 2022 đến tháng 199 năm 18.34, số lượng khung gỗ lưu động xuất khẩu từ Trung Quốc là 2 chiếc, với giá trị xuất khẩu là 620,000 triệu đô la Mỹ, trong khi số lượng nhập khẩu chỉ có XNUMX chiếc, với giá trị nhập khẩu là XNUMX đô la Mỹ.
Xét về giá đơn vị xuất nhập khẩu trung bình, giá đơn vị nhập khẩu trung bình của khung gỗ roving tại Trung Quốc cao hơn giá đơn vị xuất khẩu trung bình. Giá nhập khẩu khung gỗ roving có xu hướng đắt hơn. Từ tháng 2022 đến tháng 92,000 năm 308,800, giá đơn vị xuất khẩu trung bình của khung gỗ roving từ Trung Quốc là 216,600 USD/đơn vị, trong khi giá đơn vị nhập khẩu trung bình là XNUMX USD/đơn vị, chênh lệch XNUMX USD/đơn vị.
2. Phân tích xuất nhập khẩu
Theo luật hải quan Trung Quốc, khung sợi thô tại Trung Quốc có thể được chia thành ba loại: khung sợi thô cotton, khung sợi thô len và các loại khung sợi thô khác. Từ tình hình xuất khẩu, loại khung sợi thô xuất khẩu từ Trung Quốc chủ yếu tập trung vào khung sợi thô cotton. Từ tháng 2022 đến tháng 195 năm 3, số lượng xuất khẩu khung sợi thô cotton là 1 đơn vị, trong khi số lượng xuất khẩu khung sợi thô len và khung sợi thô khác chỉ lần lượt là XNUMX đơn vị và XNUMX đơn vị. Do đó, có thể thấy rằng khung sợi thô cotton là tỷ lệ xuất khẩu khung sợi thô cao nhất từ Trung Quốc.

Từ tình hình nhập khẩu, năm 2018, nhập khẩu khung sợi thô tại Trung Quốc chủ yếu tập trung vào khung sợi thô bông và len. Năm 2019, số lượng và giá trị nhập khẩu khung sợi thô bông giảm đáng kể, nhập khẩu khung sợi thô len trở thành trọng tâm chính. Sau năm 2020, số lượng nhập khẩu máy kéo sợi thô len cũng giảm đáng kể, số lượng nhập khẩu khung sợi thô tại Trung Quốc bắt đầu có xu hướng về một chữ số.
Xét về giá xuất khẩu bình quân, khung sợi bông thô có giá xuất khẩu cao nhất. Từ tháng 2022 đến tháng 92,600 năm 2021, giá xuất khẩu bình quân của khung sợi bông thô là 2022 USD/đơn vị. Về nhập khẩu, theo số liệu thống kê của hải quan Trung Quốc, lượng nhập khẩu các loại khung sợi bông thô khác và khung sợi bông thô của Trung Quốc là 308,800 kể từ năm 141,600. Chỉ có khung sợi len thô vẫn có nhu cầu nhập khẩu nhỏ, sự phụ thuộc chung vào nhập khẩu nước ngoài đã giảm dần theo từng năm. Từ tháng 2021 đến tháng 218 năm XNUMX, giá nhập khẩu bình quân của khung sợi len thô là XNUMX USD/đơn vị, tăng đáng kể so với mức giá XNUMX USD/đơn vị của năm XNUMX, tăng XNUMX% so với cùng kỳ năm trước.
3. Phân tích mô hình xuất nhập khẩu
Theo quan điểm về mô hình xuất nhập khẩu, từ tháng 2022 đến tháng 0 năm 2020, lượng nhập khẩu khung sợi bông và các loại sợi thô khác vào Trung Quốc là 45 tổng thể và việc sản xuất khung sợi thô chất lượng cao hiện có thể được hoàn thành độc lập tại Trung Quốc, không cần nhập khẩu. Ngược lại, lượng xuất khẩu khung sợi thô của Trung Quốc đã tăng theo từng năm kể từ năm 32. Trong số đó, các nước xuất khẩu chính là Bangladesh và Việt Nam. Xem xét các danh mục cụ thể, có ba nước xuất khẩu chính đối với khung sợi thô bông, trong đó Bangladesh, Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ xếp hạng theo thứ tự khối lượng xuất khẩu, chiếm lần lượt 14%, XNUMX% và XNUMX%. Tất cả các khung sợi thô len đều được xuất khẩu sang Việt Nam, trong khi các khung sợi thô khác được xuất khẩu sang Bangladesh.
Trong 10 khu vực xuất khẩu hàng đầu của khung sợi thô của Trung Quốc theo phân loại phụ từ tháng 2022 đến tháng 40 năm 30, có nhiều khu vực xuất khẩu khung sợi thô bông, với bốn tỉnh và thành phố là những khu vực chính. Theo thứ tự khối lượng xuất khẩu từ cao đến thấp, đó là tỉnh Sơn Đông, Bắc Kinh, tỉnh Giang Tô và tỉnh An Huy, lần lượt chiếm 28%, 2%, XNUMX% và XNUMX%. Các khu vực xuất khẩu len và các khung sợi thô khác ít hơn, với khung sợi thô len được xuất khẩu từ tỉnh Giang Tô và các khung sợi thô khác được xuất khẩu từ tỉnh Sơn Đông.
Nguồn từ Nhóm nghiên cứu tình báo (chyxx.com)